Xét nghiệm kháng thế kháng HLA
1.Kháng thể kháng HLA là gì?
Kháng thể kháng HLA (anti-HLA antibodies) được hình thành sau khi cơ thể tiếp xúc với kháng nguyên HLA lạ. Các đối tượng có nguy cơ phát triển kháng thể kháng HLA là phụ nữ mang thai nhiều lần, bệnh nhân truyền máu nhiều lần và bệnh nhân có tiền căn ghép.
Ở người nhận, sự tồn tại kháng thể kháng HLA đặc hiệu với kháng nguyên HLA người cho có thể dẫn tới hiện tượng thải ghép. Do đó, các bệnh nhân dự tính ghép nên làm xét nghiệm sàng lọc kháng thể kháng HLA để xác định trạng thái tiền mẫn cảm, từ đó có phương án lựa chọn người cho thích hợp.
2.Xét nghiệm kháng thể kháng HLA được tiến hành khi nào?
Trong sàng lọc trước ghép, bên cạnh mức độ hòa hợp về kiểu gene HLA, một yếu tố khác cũng cần được đánh giá đó là sự tồn tại của các kháng thể kháng HLA trong cơ thể người nhận. Các kháng thể kháng HLA được hình thành bởi hệ thống miễn dịch tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có những lý giải khoa học một cách đầy đủ về nguyên nhân hình thành các kháng thể kháng HLA trong cơ thể một số người. Một số nguyên nhân được cho là có liên quan tới sự hình thành kháng thể kháng HLA như cơ thể phản ứng sau cấy ghép, sau mang thai hoặc sau truyền máu.
Mức độ biểu hiện của kháng thể kháng HLA có trong huyết thanh được đo bằng chỉ số PRA (Percent Reactive Antibody). PRA được xác định bằng cách thử huyết thanh của bệnh nhân với một bảng gồm khoảng 60 loại HLA khác nhau. Ví dụ, nếu huyết thanh của bệnh nhân phản ứng với 30 trên 60 loại HLA, thì PRA của bệnh nhân là 50% (1/2 của 60). Chỉ số PRA càng cao thì khả năng xuất hiện phản ứng thải ghép càng lớn. Nếu HLA typing là một hằng số bất biến đối với mỗi bệnh nhân và chỉ phải làm một lần thì sự tồn tại của kháng thể kháng HLA trong huyết thanh lại là một chỉ số có sự biến thiên lớn. Chỉ số này thay đổi theo thời gian, tùy tình trạng của bệnh, lịch sử truyền máu, thời gian thai kỳ…
Ngoài ra trong một số trường hợp bệnh nhân có thể có những kháng thể bắt chước HLA antibody. Một số bằng chứng cho thâý ngay cả nhiễm trùng họng do liên cầu khuẩn cũng tạo ra các kháng thể mà có thể bị nhầm lẫn với HLA antibody. Mặc dù các kháng thể này hầu như không có hại cho mảnh ghép nhưng có thể sẽ gây ra những nhận định “nhiễu” trong sàng lọc trước ghép. Vì vậy tối ưu nhất chúng ta nên theo dõi các mẫu huyết thanh định kỳ (hàng tháng) cho bệnh nhân từ đó có những đánh giá chính xác hơn về tình trạng trước và sau ghép cũng như mối tương quan việc sản xuất kháng thể nếu có với các sự kiện y tế – chẳng hạn như nhiễm trùng, thuốc men, v.v.
Xét nghiệm HLA typing được tiến hành mà không cần quan tâm tới thời điểm ghép trái lại xét nghiệm phát hiện kháng thể kháng HLA cần được đánh giá lại ngay trước thời điểm ghép và được tiến hành cùng với xét nghiệm đọ chéo Crossmatch.
Ngoài việc xác định bệnh nhân có PRA cao hay thấp, chúng ta cần xác định mức độ đặc hiệu của kháng thể cho một HLA cụ thể nào. Ví dụ: nếu bạn được nhận tạng ghép từ người hiến có HLA-A2, bạn có thể phát triển kháng thể kháng A2. Đó là tính đặc hiệu của kháng thể. Bệnh nhân có thể có một hoặc cũng có thể có nhiều kháng thể đặc hiệu. Sau ghép, sự xuất hiện của kháng thể đặc hiệu kháng lại HLA của mảnh ghép là một trong những dấu hiệu để theo dõi nguy cơ thải ghép.
Sàng lọc trước ghép đóng một vai trò quan trọng cho thành công của ca ghép. Một trong những yếu tố cần sáng lọc trước ghép đó là xác định mức độ hòa hợp của cặp ghép thông qua xét nghiệm xác định kiểu gene HLA và định danh kháng thể kháng HLA.